Chuyên môn

VIÊM NHIỄM VÙNG HÀM MẶT

VIÊM NHIỄM VÙNG HÀM MẶT


VIÊM NHIỄM VÙNG HÀM MẶT
 

1. ĐẠI CƯƠNG
- Viêm nhiễm vùng hàm mặt là bệnh thường gặp do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hay gặp hơn cả là các loại viêm nhiễm không đặc hiệu (do nhiều loại nguyên nhân gây lên). Bệnh xuất hiện và tiến triển theo mùa, mưa nóng ẩm (xuân - hạ) gặp nhiều hơn, mùa hanh khô (thu - đông) ít gặp hơn.
- Vùng hàm mặt có hệ thống mạch máu, thần kinh nuôi dưỡng phong phú, khi bị viêm nhiễm tại chỗ có phản ứng sưng nề nhanh, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi của cơ thể ngăn cản và chống nhiễm trùng lan tràn.
- Vùng hàm mặt liên quan chặt chẽ với sọ não, trực tiếp là nền sọ trước. Mạch máu nuôi dưỡng vùng hàm mặt chủ yếu là các nhánh của động mạch cảnh ngoài nhưng lại có vòng nối với động mạch cảnh trong qua động mạch gốc mắt trong. Cho nên nhiễm trùng vùng hàm mặt dễ lan tràn lên nền sọ gây viêm não, màng não. Đây là biến chứng nặng và rất nguy hiểm, có thể để lại những di chứng rất nặng nề về thần kinh.
- Nhiễm trùng vùng hàm mặt tuy không phải là bệnh tối nguy hiểm, nhưng hay có những biến chứng rất nặng nếu không được dự phòng và điều trị tích cực và có hiệu quả. Những biến chứng thường gặp là:
+ Viêm tấy lan tỏa rộng, tràn mủ xuống thấp, ra sau gây ngạt thở và nhiễm trùng trung thất.
+ Nhiễm trùng huyết.
Trong những năm gần đây, viêm nhiễm trùng vùng hàm mặt có xu hướng giảm cả về số lượng và mức độ nặng của bệnh. Nguyên nhân chủ yếu do được dự phòng tốt và điều trị sớm và tích cực của các tuyến. Mặt khác, do sự ra đời nhiều loại, nhiều thế hệ kháng sinh mới có tác dụng rộng và chống nhiễm trùng mạnh, bệnh nhân tự mua và sử dụng sớm nên đã ngăn chặn được nhiễm trùng lan tràn ở mặt.
2. VIÊM NHIỄM KHÔNG ĐẶC HIỆU VÙNG HÀM MẶT
Viêm nhiễm không đặc hiệu vùng hàm mặt còn gọi là những viêm nhiễm thông thường, do các loại vi khuẩn thông thường gây nên. Vi khuẩn thường gặp trong viêm nhiễm vùng hàm mặt gồm có:
- Tụ cầu khuẩn vàng và trắng.
- Liên cầu khuẩn tán huyết anpha, beta và cả không tan huyết, liên cầu khuẩn gram âm
- Trực khuẩn perfringens, clostridium oedematiens, thoi xoắn khuẩn,,
- Não mô cầu.
Đây là những loại vi khuẩn có thể gặp ở bất kỳ vết thương nào trên cơ thể. Trong giai đoạn hiện nay, những vi khuẩn này có khả năng kháng thuốc rất mạnh, những loại kháng sinh thông thường ít tác dụng, nên thường phải dùng kháng sinh mạnh và phối hợp các loại kháng sinh mới đạt hiệu quả điều trị.
Đường vào của vi khuẩn trong các loại viêm nhiễm thông thường vùng hàm mặt gồm có:
- Qua da: những vết xây sát da do chấn thương, vết thương, nhiễm trùng qua nang chân lông, tuyến bã.
- Từ những ổ nhiễm trùng liên quan đến răng và vùng quanh răng.
- Qua đường máu: gặp ở những nhiễm trùng sâu trong các cơ quan tổ chức.
2.1. Viêm nhiễm phần mềm vùng hàm mặt.
2.1.1. Nguyên nhân.
Có thể chia ra hai loại nguyên nhân chính dẫn đến viêm nhiễm phần mềm vùng hàm mặt.
2.1.1.1. Nguyên nhân do răng: đây là nguyên nhân chính trong tất cả các viêm nhiễm vùng hàm mặt.
- Nhiễm trùng vùng góc hàm dưới do biến chứng mọc răng số 8 (răng khôn).
- Các ổ áp xe trong bệnh viêm quanh răng lan tràn vào tổ chức phần mềm vùng quanh xương hàm.
- Viêm tủy, viêm quanh cuống (chóp chân răng).
2.1.1.2. Nguyên nhân không do răng.
- Do chấn thương, vết thương phần mềm.
- Do nhiễm trung nang lông, tuyến bã.
- Do viêm hạch bạch huyết áp xe hóa.
- Do bội nhiễm các nang vùng dưới hàm: nang giáp móng, nang khe mang.
- Do viêm, áp xe hóa tuyến nước bọt, viêm mủ khớp thái dương hàm lan tràn ra tổ chức phần mềm xung quanh.
- Do viêm tai xương chũm xuất ngoại, viêm mủ amidal vỡ vào thành họng bên.
Tất cả những nguyên nhân trên sẽ gây viêm tấy lan tỏa hoặc áp xe khu trú, đều tạo nên một bệnh cảnh lâm sàng của nhiễm trùng vùng hàm mặt. Những trường hợp do bội nhiễm các khối u, các nang thì hình ảnh lâm sàng của viêm nhiễm trùng sẽ che lấp các triệu chứng của các bệnh chính.
2.1.2. Bệnh cảnh lâm sàng chung.
2.1.2.1. Triệu chứng toàn thân.
- Sốt: tùy theo mức độ viêm nhiễm, tùy sức đề kháng và phản ứng của cơ thể mà nhiệt độ từ 38-39oC, có khi lên đến 40oC kèm theo rét run từng cơn. Nếu sốt có kèm theo rét run cần đề phòng có thể bị nhiễm trùng huyết. Sốt kèm theo mạch nhanh, rối loạn nhịp tim.
- Thể trạng mệt mỏi đôi khi thần kinh ở trạng thái li bì, biểu hiện của nhiễm trùng nhiễm độc nặng. Nếu có viêm não, màng não, có dấu hiệu màng não (+), rối loạn ý thức không thường xuyên, dần dần đi vào hôn mê. Độ hôn mê được tính bằng thang điểm Glasgow.
- Rối loạn chức năng ăn nhai, nuốt, chủ yếu do đau, có thể do sưng nề chèn đẩy các cơ quan trong miệng.
- Rối loạn hô hấp: khó thở ở mức độ khác nhau gặp trong các trường hợp viêm tấy lan tỏa sàn miệng, viêm áp xe hóa thành họng bên và amidal. Đặc biệt những viêm tấy lan tỏa vùng dưới hàm xuống hai bên máng cảnh, tràn dịch - mủ vào trung thất gây khó thở kịch phát.
- Rối loạn về nhìn: thị lực giảm, có hiện tượng nhìn đôi trong các trường hợp viêm áp xe trong hốc mắt gây chèn đẩy nhãn cầu.
- Xét nghiệm máu: số lượng HC và HST giảm ở giai đoạn nặng, số lượng BC tăng, CTBC chuyển trái mạnh, tăng BC đa nhân trung tính. Tốc độ máu lắng (VSS) có thể tăng nhẹ. Chức năng thận, gan bình thường hoặc suy mang tính chất cơ năng. Cấy máu có thể (+) nếu có nhiễm trùng huyết. Nếu nghi ngờ có nhiễm trùng huyết, cần cấy máu 3 lần vào các thời điểm sốt cao rét run.
2.1.2.2. Triệu chứng tại chỗ.
- Mặt sưng nề một phần hoặc toàn bộ, gây biến dạng, mắt khó mở khó nhắm. Da trên vùng viêm nhiễm căng bóng, đỏ hồng, đôi khi hơi tím nhạt hoặc trắng đục.
- Tăng cảm ngoài da có tính lan tỏa, nhưng có những điểm đau khu trú ở một vị trí cố định, đau hơn so với xung quanh, đau tăng khi ấn vào đúng vị trí là trung tâm viêm nhiễm ban đầu. Khi đã hình thành rõ các ổ mủ khu trú, các ổ áp xe thì mức độ đau tại chỗ sẽ giảm dần.
- Sờ nắn: có điểm đau, da ấn có vết lõm, vị trí có ổ mủ thường mềm hơn xung quanh, ấn lõm dễ hơn.
- Khám trong miệng: hạn chế há miệng, hạn chế vận động lưỡi, lưỡi bị đẩy lên cao, ra sau hoặc lệch sang một bên. Thành họng bên, nhất là trụ trước amidal có ổ mủ đẩy gốc lưỡi thành họng che lấp một phần đường thở. Hệ thống răng lợi có các dạng bệnh lý là nguyên nhân gây viêm nhiễm như: răng số 8 mọc lệch, có lợi chùm góc hàm, răng sâu và viêm tủy răng, viêm quanh răng nặng có kèm theo các ổ áp xe ở bờ lợi.
Những triệu chứng lâm sàng trên không phải gặp ở tất cả các loại viêm nhiễm, tùy theo mức độ nặng nhẹ, tùy theo vị trí, tùy phản ứng tại chỗ và toàn thân của từng bệnh nhân mà các triệu chứng lâm sàng biểu hiện ở các mức độ khác nhau ở từng vị trí.
2.1.2.3. Dạng đặc biệt của viêm, nhiễm trùng vùng hàm mặt.
Viêm tấy lan tỏa (Phlegmon): là dạng viêm nhiễm trùng lan rộng ở vùng hàm mặt, nó xảy ra phụ thuộc vào hai yếu tố chính.
- Loại vi khuẩn gây bệnh: thường gặp là tụ cầu vàng, ít gặp liên cầu tan huyết hoặc trực khuẩn coli.
- Sức đề kháng của bệnh nhân: do sức đề kháng kém, vi khuẩn phát triển nhanh và lan tràn, hàng rào bảo vệ không thể ngăn chặn nên ở viêm nhiễm dễ dàng lan từ vùng này sang vùng khác, có khi lan rộng cả mặt.
Viêm tấy lan tỏa là một thể lâm sàng nặng của viêm nhiễm trùng hàm mặt, điều trị rất khó khăn, thời gian kéo dài và rất tốn kém.
Đinh râu: “đinh râu” là một thuật ngữ có tính chất dân gian, nhất là đối với Việt Nam. Trước đây người ta cho rằng “đinh râu” xuất phát xung quanh miệng nơi có mọc râu (như môi, cằm). Điều này chỉ đúng một phần, khái niệm “đinh râu” cần được hiểu rộng và đúng bản chất của bệnh trên các mặt sau.
- Trước hết “đinh râu” là một dạng của viêm tấy lan tỏa vùng hàm mặt.
- Điểm nhiễm trùng của “Đinh râu” xuất phát từ nhiễm trùng nang chân lông, tuyến bã ở vùng mặt. Nơi nào có hai tổ chức này đều có thể là điểm xuất phát của “đinh râu” nhưng ở mặt dễ nhiễm trùng và bệnh nhân dùng tay cậy, nặn càng tạo điều kiện viêm nhiễm phát triển nhanh và lan rộng.
- Điểm xuất phát của “đinh râu” ở tổ chức da, lan tràn ra xung quanh chủ yếu qua hệ thống tĩnh mạch nông dưới da, cho nên tốc độ lan tỏa rất nhanh và thường có biến chứng nhiễm trùng huyết.
- Trên lâm sàng, “đinh râu” là loại viêm tấy lan tỏa đặc biệt: từ một điểm nhiễm trùng rất nhỏ ở mặt (không nhất thiết phải ở vùng có râu), lan nhanh ra xung quanh theo các hướng của hệ tĩnh mạch, tạo ra các dải viêm tấy đỏ, như hình sao, sau đó các dải viêm tấy này nhanh chóng liên kết với nhau tạo ra viêm lan tỏa nhanh và rộng. Đặc biệt “đinh râu” vi khuẩn thường đi theo hệ thống tĩnh mạch xoang vào não gây viêm não màng não rất nhanh. Người ta nhận thấy mụn “đinh râu” càng ở cao càng nguy hiểm, mụn ở môi trên nguy hiểm hơn ở cằm, mụn ở mũi nguy hiểm hơn ở môi trên.
2.1.2.4. Tiến triển và biến chứng của viêm nhiễm vùng hàm mặt.
- Một ổ viêm nhiễm trùng nếu được điều trị tích cực, đúng phương pháp sẽ tiến triển thuận lợi, ổ viêm sẽ được khu trú thoái lui, hoặc được bao vây tạo thành ổ mủ có vỏ bao bọc không lan tràn ra xung quanh hay lan tràn vào các cơ quan khác. Triệu chứng toàn thân và tại chỗ sẽ giảm dần, sau khi trích dẫn lưu ổ mủ sẽ hồi phục và khỏi bệnh.
- Nếu điều trị, hoặc xử trí không tích cực ổ viêm nhiễm sẽ phát triển lan tràn ra xung quanh tạo ra bệnh cảnh viêm tấy lan tỏa (Phlegmon), hình thành nhiều ổ mủ, rải rác, các ổ mủ này liên quan với nhau qua các khe kẽ tổ chức liên kết lỏng lẻo. Những tiến triển xấu như vậy việc điều trị sẽ khó khăn và phức tạp gấp bội.
- Những biến chứng thường gặp trong viêm nhiễm vùng hàm mặt:
+ Nhiễm trùng huyết: đây là biến chứng dễ gặp trong thời điểm hiện nay mặc dù có nhiều loại kháng sinh phổ rộng và mạnh, nhưng do sự kháng thuốc của vi khuẩn và điều trị không tích cực và hiệu quả ngay từ đầu. Bệnh nhân sốt cao, rét run liên tục, toàn thân biểu hiện nhiễm trùng nhiễm độc nặng, người mệt mỏi li bì, đau đầu... Toàn thân và tại chỗ tiến triển ngày càng nặng có thể dẫn đến tử vong.
+ Viêm não - màng não: là hậu quả của nhiễm trùng huyết: đau đầu tăng, nôn nhiều, dấu hiệu màng não (+), chọc dịch não tủy có mủ. Đây là biến chứng rất nặng nề và để lại di chứng về thần kinh tâm thần rất nặng.
+ Viêm đa cơ: khi toàn thân mất sức đề kháng, vi khuẩn khu trú ở các cơ lớn (như cơ mông to, cơ lưng, cơ tứ đầu đùi...) gây ra các ổ viêm, áp xe ở cơ, sau lan tràn ra xung quanh gây các ổ hoại tử lớn, tiên lượng rất nặng.
+ Tràn dịch, tràn mủ vào trung thất do sự lan tràn xuống thấp của các ổ mủ vùng sàn miệng, dưới hàm. Viêm, nhiễm trùng trung thất cũng là biến chứng rất nặng dễ gây tử vong.
2.2. Viêm xương tủy xương vùng hàm mặt.
2.2.1. Nguyên nhân: viêm xương tủy hàm (cốt tủy viêm xương hàm) do 2 nhóm nguyên nhân chính:
2.2.1.1. Nguyên nhân do răng:
- Bệnh lý ở răng, vùng quanh răng, cuống răng lan tràn vào xương.
- Viêm tổ chức liên kết góc hàm do răng 38 - 48 xử trí nhổ răng không đúng thời điểm, gây tổn thương xương dẫn đến viêm xương.
2.2.1.2. Nguyên nhân không do răng:
- Chấn thương vết thương xương vùng hàm mặt.
- Nhiễm trùng các loại u (u lành, u ác tính) trong xương hàm.
- Viêm xương tủy hàm đường dưới.
2.2.2. Bệnh cảnh lâm sàng chung.
Viêm xương tủy hàm là loại viêm nhiễm vùng hàm mặt, cho nên biểu hiện lâm sàng cũng giống như viêm nhiễm tổ chức phần mềm, nhưng có những triệu chứng riêng liên quan đến xương.
2.2.2.1. Triệu chứng toàn thân: giống như triệu chứng của viêm nhiễm tổ chức phần mềm nhưng tiến triển thường âm ỉ và kéo dài hơn.
2.2.2.2. Triệu chứng tại chỗ:
- Sưng, nóng, đỏ, đau tổ chức phần mềm che phủ xương, có khi diễn ra tương đối rầm rộ, có khi âm ỉ kéo dài tùy theo từng nguyên nhân. Biểu hiện của một nhiễm trùng cấp hoặc bán cấp tại chỗ.
- Đau liên quan đến xương hàm và cung răng: đau liên tục âm ỉ nửa cung hàm, có khi lan ra toàn bộ hàm. Các răng liên quan lung lay hoặc xô lệch tùy theo mức độ phá hủy của xương, nhiều trường hợp răng rụng dần nhưng niêm mạc lợi không thể liền.
- Rò: rò qua bề huyệt răng, qua tổ chức phần mềm bên ngoài. Rò ở một vị trí hoặc 2 - 3 vị trí dọc cung hàm, có khi lấy được mảnh xương chết. Rò lâu ngày có thể tiêu hủy nhiều xương dẫn đến gẫy xương hàm.
- X quang: là hình ảnh tiêu hủy xương kết hợp với bồi đắp xương, đôi khi thấy mảnh xương chết.
2.3. Điều trị viêm nhiễm không đặc hiệu vùng hàm mặt.
2.3.1. Điều trị toàn thân.
- Chống nhiễm trùng: sử dụng kháng sinh thích hợp tùy theo mức độ nặng nhẹ của bệnh, loại vi khuẩn gây viêm nhiễm. Nếu có điều kiện, cần phải cấy trùng mủ (hoặc dịch) ở vùng nhiễm khuẩn, làm kháng sinh đồ để sử dụng kháng sinh phù hợp và có hiệu quả.
Trong các trường hợp có nhiễm trùng huyết, cần điều trị tích cực và toàn diện để ngăn chặn những biến chứng có thể dẫn đến nguy hiểm. Dùng kháng sinh kết hợp liều cao cùng các thuốc tăng sức đề kháng của cơ thể.
- Hạ sốt, giảm đau, giảm sưng nề, truyền dịch nuôi dưỡng, các loại vitamin.
2.3.2. Điều trị tại chỗ: Điều trị tại chỗ cần thực hiện thích hợp và kịp thời đối với từng mức độ, tùy vị trí và giai đoạn của bệnh.
- Trước hết cần đánh giá mức độ nhiễm trùng tại chỗ, giai đoạn của viêm nhiễm, đã có ổ mủ chưa, vị trí ổ mủ ở sâu hay nông. Đặc biệt chú ý những ổ mủ ở sâu, vùng sàn miệng, dưới gốc hàm, thành họng bên, dưới góc hàm có nguy cơ lan tràn rộng.
- Trích rạch tháo mủ: là biện pháp điều trị tích cực nhằm loại bỏ ổ mủ, giảm nguy cơ lan rộng ra xung quanh. Cần chú ý dẫn lưu triệt để những ổ mủ ở sâu, nhiều ổ mủ rải rác dễ bỏ sót. Đường rạch tháo mủ phải đảm bảo hai yêu cầu vừa có thể dẫn lưu mủ tốt, vừa đảm bảo về mặt thẩm mỹ cho bộ mặt sau này.
- Những trường hợp viêm xương tủy hàm, sau khi được chẩn đoán chính xác trên X quang, có chỉ định phẫu thuật lấy tổ chức xương chết kết hợp xử trí các răng có liên quan. Mức độ can thiệp tùy theo tổn thương thực thể quan sát được khi phẫu thuật. Cần nhớ rằng, viêm xương tủy hàm cũng như các loại cốt tủy viêm khác có thể phải phẫu thuật nhiều lần mới loại bỏ hết tổ chức xương viêm rải rác ở nhiều vị trí.
2.3.3. Điều trị nguyên nhân: Điều trị loại bỏ nguyên nhân có thể tiến hành song song hoặc sau hai loại điều trị trên tùy theo từng nguyên nhân.
- Điều trị răng nguyên nhân: chữa tủy, mổ nang cuống răng, nhổ răng số 8, nhổ chân răng... sau điều trị viêm tủy ổn định.
- Phẫu thuật các khối u phần mềm, xương hàm sau điều trị khỏi viêm nhiễm phần mềm.
- Điều trị các bệnh khác như: viêm tai xương chũm, viêm áp xe tuyến nước bọt, viêm mủ khớp hàm...
Điều trị viêm nhiễm không đặc hiệu vùng hàm mặt là một biện pháp tổng hợp, kết hợp điều trị toàn thân và tại chỗ, điều trị triệu chứng với điều trị nguyên nhân, trong đó điều trị toàn thân và tại chỗ đóng vai trò chủ yếu. Trong quá trình điều trị cần phải nhạy bén toàn diện, đề phòng và phát hiện những biến chứng sớm, kịp thời xử trí tích cực mới tránh được những tử vong đáng tiếc xảy ra.
3. VIÊM NHIỄM ĐẶC HIỆU VÙNG HÀM MẶT
Viêm nhiễm đặc hiệu vùng hàm mặt là loại bệnh lý không phải do các loại vi khuẩn thông thường gây nên, mà do các loại mầm bệnh sau:
- Do nấm: hay gặp là nấm Actinomyces, candida và xạ khuẩn. Xạ khuẩn là loại trung gian giữa vi khuẩn và nấm gây nên bệnh cảnh lâm sàng dễ lẫn với viêm nhiễm thông thường.
- Do vi khuẩn lao: lao ở vùng hàm mặt rất ít gặp, có thể gặp lao ở lưỡi. Lao hạch vùng cổ, dưới hàm hay gặp hơn. Bệnh có thể điều trị ở chuyên khoa răng hàm mặt hoặc khoa lao. Lao hạch là bệnh có thể chữa khỏi hoàn toàn nhờ kháng sinh chống lao.
- Do nhiễm vi khuẩn giang mai: đây là bệnh hoa liễu, có thể kết hợp phát sinh và phát triển ở niêm mạc miệng ở bệnh nhân giang mai. Các nốt loét niêm mạc miệng có thể xét nghiệm thấy trực khuẩn giang mai.
3.1. Bệnh nấm vùng hàm mặt.
3.1.1. Viêm nhiễm do nấm actinomyces (Actinomycose):
- Lâm sàng: có các ổ viêm bán cấp rải rác ở má, bờ xương hàm dưới, vùng dưới hàm.
+ Toàn thân: biểu hiện không rầm rộ của viêm nhiễm trùng cấp, chỉ có phản ứng sốt nhẹ, nếu có bội nhiễm vi khuẩn khác sẽ sốt cao hơn.
+ Tại chỗ: các ổ viêm ngay ở tổ chức dưới da sưng vồng lên như một nang bã đậu nhiễm trùng. Màu da trên ổ viêm đỏ tím, ấn mềm, xung quanh thâm nhiễm xơ cứng. Ổ nhiễm nấm giống như khối u được gọi là “củ nấm”. Ổ viêm này lan ra xung quanh do sự phát triển của các sợi nấm ngâm dưới da và tạo ra các ổ viêm mới ở cách xa ổ nguyên phát. Các ổ viêm này phảttiển ăn ra nông gây rò có thể liền sẹo xấu, đồng thời lại phát triển ổ viêm khác xung quanh. Nếu bị bội nhiễm các vi khuẩn thông thường sẽ có đợt viêm cấp giống như viêm nhiễm không đặc hiệu. Đợt viêm cấp sẽ thuyên giảm nhanh do có rò sớm ra ngoài da.
- Xét nghiệm: soi tươi và cấy nấm để xác định chẩn đoán. Nên cấy nấm ít nhất 3 lần cách nhau 7 ngày để không bỏ sót vì nấm actinomyces cấy khó mọc ở các môi trường.
- Điều trị: dùng kháng sinh chống nấm theo kết quả cấy nấm. Nếu có bội nhiễm có thể dùng kháng sinh thông thường chống nhiễm trùng. Trích nạo ổ nấm là biện pháp hỗ trợ loại trừ trực tiếp nấm một phần, ít có giá trị điều trị như viêm nhiễm thông thường.
3.1.2. Bệnh nấm niêm mạc miệng: thấy ở niêm mạc má, môi, lưỡi. Đa số do nấm Candida, ít gặp do nấm Actinomyces.
- Lâm sàng: niêm mạc miệng có các nốt viêm loét mãn tính, xuất hiện rải rác không cùng một thời điểm. Các nốt loét có giả mạc che phủ. xung quanh thâm nhiễm đỏ. Khi ăn uống có chất cay, mặn, bệnh nhân cảm giác đau, sót. Các nốt loét thay nhau khỏi, đồng thời lại xuất hiện những nốt mới ở vị trí khác nhau bên cạnh hoặc bên đối diện.
- Xét nghiệm: soi tươi, cấy nấm để xác định chẩn đoán.
- Điều trị:
+ Dùng kháng sinh chống nấm khi có kết quả xét nghiệm. Kết hợp dùng kháng sinh chống nấm toàn thân với ngậm trong miệng.
+ Kháng sinh chống bội nhiễm thông thường.
+ Các dung dịch xúc miệng chống viêm, giảm đau khi có loét rộng niêm mạc miệng.
3.2. Lao hạch vùng dưới hàm.
Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, trên bệnh nhân đã có tiền sử lao phổi hoặc cơ quan khác, cũng có thể gặp lao hạch nguyên phát.
- Lâm sàng: vùng dưới hàm, cổ xuất hiện hạch thành nhóm, to nhỏ không đều, mật độ khác nhau. Hạch không đau hoặc đau nhẹ. Nếu không được điều trị sẽ tiếp tục có thâm nhiễm hạch ở xung quanh, dính thành một chuỗi có kích thước khác nhau.
Hạch có thể tiến triển, nhuyễn hóa thành tổ chức bã đậu, vỡ ra ngoài gây rò, tạo thành vòng sẹo ở cổ và dưới hàm gây co kéo.
- Xét nghiệm:
+ Làm phản ứng Mantoux.
+ Sinh thiết hoặc chọc hút tế bào chẩn đoán.
- Điều trị: có hai biện pháp kết hợp.
+ Dùng kháng sinh chống lao toàn thân theo phác đồ.
Phác đồ 2 tháng sử dụng 4 loại thuốc:
  • Streptomycin 15 mg/ kg cân nặng
  • INH (Rimifon 5 – 7 mg/ kg cân nặng
  • Rifampixin 10 mg/ kg cân nặng
  • Pyrazinamid 15 – 25 mg/ kg cân nặng
Phác đồ 6 tháng sử dụng 2 loại thuốc:
  • INH (Rimifon) 5 – 7 mg/ kg cân nặng
  • Ethambutol 15 – 20 mg/ kg cân nặng
+ Phẫu thuật loại bỏ hạch bị lao, tạo điều kiện liền sẹo chủ động và hỗ trợ cho điều trị toàn thân.
Tóm lại: Viêm, nhiễm trùng vùng hàm mặt là một loại bệnh lý rất đa dạng, do nhiều nguyên nhân gây nên. Tiến triển và tiên lượng của bệnh đa số là tốt, nhưng khi chẩn đoán, điều trị cũng cần đề phòng những biến chứng cấp tính có thể xảy ra. Cần áp dụng các biện pháp chẩn đoán, điều trị kết hợp và toàn diện để đem lại hậu quả tốt hơn.
Tài liệu tham khảo:
- Bài giảng Răng hàm mặt tập 1,2,3 Trường Đại học y Hà nội.
- Bài giảng Phẫu thuật Hàm mặt. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. 2010.
 

Tiến sĩ BSCKII Lê Đức Tuấn
Hiện có 0 bình luận
Gửi yêu cầu tư vấn